Chia sẻ với em, người muốn đi tu làm linh mục
Em thân mến,
Anh viết những lời này để chia sẻ với em, bởi vì những lần “chát” qua internet em muốn anh chia sẻ với em về chuyện: muốn làm linh mục thì phải có những điều kiện nào, và phải như thế nào để trở thành một linh mục tốt lành?
Anh thì mới chịu chức linh mục chỉ có 5 năm 1 tháng và 11 ngày mà thôi, chưa có kinh nghiệm nhiều cho bằng các linh mục đàn anh khác, tuy nhiên trong phạm vi có thể, anh xin chia sẻ với em về những cảm nghiệm thực tế của anh khi làm linh mục, để em có thể cân nhắc mà chọn làm linh mục hay đi hướng khác...
Linh mục phải là người có nhân bản.
Em có biết không, người ta nhìn một linh mục khác với nhìn một thanh niên đàn ông bình thường, tức là người ta nhìn thấy cả một quyển sách dạy nhân bản nơi người linh mục, nhân bản chính là những “phép tắc” căn bản dùng để đối xử giữa con người với nhau cho đúng tình người, mà linh mục chính là những con người như thế, em muốn theo đuổi ơn gọi linh mục ? Đó là một điều lành thánh và đáng được Thiên Chúa chúc phúc, cũng như được mọi người cảm phục, nhưng trước khi làm linh mục, thì người linh mục là một con người như những thanh niên khác, nhưng hạnh kiểm phải trổi vượt trên họ, hạnh kiểm đây chính là đời sống có nhân bản.
1. Lòng biết ơn.
Biết ơn tức là hiểu sâu sắc và ghi nhớ công ơn của người khác đối với mình (1), mà người luôn ghi nhớ công ơn của người khác trước tiên là linh mục.
Thiên chức linh mục chính là Thiên Chúa ban cho người nào thì tùy ý Ngài, Ngài chọn người này người nọ, nhưng không phải vì họ thánh thiện hay đạo đức hoặc học vấn trổi vượt hơn người khác, mà là vì tình yêu đặc biệt Ngài dành cho họ, Ngài chọn họ qua Giáo Hội và qua Hội Dòng của họ hoặc qua giám mục địa phận, và qua giám mục hoặc Hội Dòng mà họ mới được đứng vào hàng ngũ công hầu khanh tướng của Thiên Chúa như hôm nay, cho nên việc trước tiên là những người được chọn ấy –linh mục- biết ơn Thiên Chúa và cám ơn Ngài, nhưng Thiên Chúa không muốn họ làm như thế đâu, Ngài muốn họ phải cám ơn trước hết chính là địa phận của họ hoặc Hội Dòng của họ, nơi cưu mang họ, nơi mà nếu không có bề trên tổng quyền, không có cha viện trưởng hoặc là tập sư của họ cũng như ban cố vấn hội dòng, nếu như không có sự yêu thương dạy dỗ của các cha giáo trong chủng viện và của toàn ban giám đốc, nếu không có sự yêu thương của mọi người thì họ sẽ không được như ngày hôm nay.
Biết ơn mọi người, vì ngoài chủng viện hoặc hội dòng ra, thi còn biết bao nhiêu người mà người linh mục phải biết ơn.
Em biết không, anh đã tận mắt nhìn thấy một vài linh mục rất trẻ đã trả ơn cho bề trên tổng quyền của mình, cho hội dòng của mình bằng những câu xỉ vả nhục mạ ngài công khai trước mặt đại hội. Những linh mục trẻ này đã trả ơn Hội Dòng bằng những thái độ xúc phạm đến bề trên tổng quyền mà họ và các thành viên khác trong Hội Dòng gọi là Gia Trưởng, tức là phụ thân của mình, chính hành động chỉ tay vào mặt bề trên tổng quyền mà nói “ông là người nói dối”, chính hành động họ sừng sộ chỉ tay vào bề trên tổng quyền mà nói “ông là người vô tư cách” và những thái độ khác của họ, chắc chắn làm tổn thương quá lớn đến vị bề trên tổng quyền của mình, và làm tổn thương đến cả các thành viên trong Hội Dòng, bởi vì không một đứa con nào lại chỉ tay vào mặt cha mẹ mình mà hét lên “ông là người vô tư cách”. Hành động này, chính họ hiểu rõ hơn bất cứ người nào khác, vì họ là linh mục, là thầy dạy, giờ đây họ dùng những chữ như người vô học, như kẻ đầu đường xó chợ để nhục mạ bề trên tổng quyền của mình.
Cái nhân bản nó nằm ở đó, chính là sự biết ơn.
Em thử tưởng tượng ra hình ảnh này xem sao: giữa đại hội một thành viên linh mục trẻ vừa nói nặng lời vừa lấy tay chỉ vào bề trên tổng quyền của mình mà nói những lời vô lễ, anh nghĩ rằng em tưởng tượng cũng không bằng anh thấy đâu. Đó là sự trả ơn của những con người vô ơn, của những người ăn cháo đá bát, của những người vô ơn bội nghĩa, mà sau này nếu em chọn con đường làm linh mục thì phải luôn tâm niệm rằng: linh mục là thầy dạy mọi người về đàng nhân đức, chứ không dạy người ta chửi bới nhau; linh mục là người dạy người khác con đường đi lên Nước Trời, chứ không chỉ cho người khác con đường đi xuống hỏa ngục. Nếu em không tâm niệm như thế thì khoan làm linh mục đã, bởi vì thời nay người ta cần những linh mục thích cầu nguyện hơn linh mục giỏi viết sách, người ta cần đến những linh mục biết thông cảm hơn những linh mục thông thái mà kiêu ngạo thô lỗ.
Sự biết ơn này càng rõ ràng và cụ thể hơn khi em làm linh mục trong một hội dòng, em thử nghĩ mà xem: từ khi em được tuyển vào các giai đoạn dự tu, thỉnh sinh, tập sinh, khấn tạm và khấn trọn đời. Em có biết là có bao nhiêu tinh thần và tiền bạc của hội dòng bỏ ra để đùm bọc nuôi dưỡng em cho đến khi em làm linh mục? Biết bao nhiêu là mồ hôi và công sức của các bề trên và của mỗi thành viên trong hội dòng đổ ra? Em có biết, có khi cha bề trên hoặc cha viện trưởng chịu nhiều lời phê bình không tốt để cho các thành viên được mọi sự tốt đẹp...?
Vậy mà em có biết, chính anh đã tận mắt thấy những linh mục rất trẻ tuổi đời và tuổi tu, họ chỉ vừa khấn trọn đời mới hơn hai năm, và chịu chức linh mục cũng chừng đó ngày tháng, chưa đủ lông đủ cánh bay nhảy, họ đã vung tay xói xỉa nhục mạ bề trên của mình, mà anh thấy tuổi đời của ngài cũng đáng là ông nội của những linh mục ấy, với tuổi linh mục thì ngài chịu chức khi họ chưa sinh ra đời, và chính ngài –anh có thể nói- đã sinh những linh mục ấy trong Hội Dòng này, vậy mà chỉ vì một chút kiêu ngạo, và quá coi mình là trịch thượng mà họ nhục mạ ngài trước mặt các thành viên người khác. Anh không hiểu khi đứng trên tòa giảng thì các linh mục này sẽ giảng gì cho giáo dân? Khi họ giảng dạy giáo dân hãy thảo kính cha mẹ thì các linh mục trẻ này có nghĩ lại mình đã nhục mạ bề trên mình không? Khi họ dạy giáo dân phải kính trên nhường dưới thì họ có nghĩ lại là mình đã xử sự như một người xa lạ với bề trên của mình không?
“Nhân vô thập toàn”, bề trên cũng vô thập toàn, mọi người đều vô thập toàn, nhưng không phải vì cái vô thập toàn ấy mà chúng ta đối xử với nhau như kẻ thù, vô thập toàn không có nghĩa là con cái xấc láo với cha mẹ, coi cha mẹ như kẻ thù để rồi nhục mạ họ.
Em biết không,
Thiên chức linh mục cao quý vô cùng, chính các thánh, các nhà thần hoc đều nhìn nhận điều ấy, và ngay cả các thiên thần cũng cúi đầu nhường bước cho linh mục. Càng suy tư càng thấy con người quả là bất xứng đón nhận nó, và vì nó quá cao quý nên nó cũng sẽ trở thành án phạt nặng nề cho những linh mục sống không xứng đáng với chức vụ linh mục mà bản thân mình lãnh nhận. Vì thế, việc đề cử một ứng sinh lên chức linh mục thật quan trọng, nếu em làm linh mục giáo phận, mà giáo dân gọi là linh mục triều, thì ngoài việc các cha giáo coi sóc dạy dỗ em ra, thì còn có cha linh hướng và toàn ban giám đốc sẽ quyết định em tiến chức linh mục, nếu em là người của một hội dòng nào đó, thì người quyết định cuối cùng chính là bề trên tổng quyền đó, chính ngài có toàn quyền tất cả trong hội dòng theo giáo luật.
Phải biết ơn những người đã trực tiếp tuyển chọn mình vào hàng ngũ linh mục, đó là giám mục địa phận và bề trên của em và những linh mục khác nữa, nếu em biết mình có thái độ xấc láo, hỗn xược thì anh khuyên em đừng theo đuổi ơn gọi làm linh mục làm gì, vì không trước thì sau em cũng sẽ làm bỉ mặt bề trên của em, như anh đã từng thấy dù các linh mục đó đã được các anh em nhắc nhở.
2. Tiết chế
Em thử nhìn lại mình xem sao, em thích gì thì em làm nấy vì em không phải là linh mục, cũng không phải là một tu sĩ, đôi lúc cái em thích là điều không tốt cho bản thân, như em thích uống rượu là uống, thích chơi bời thì chơi, thích hút thuốc là hút.v.v... em khỏi phải cần tiết chế gì cả, nhất là trong xã hội hưởng thụ như hiện nay.
Nhưng nếu em muốn đi tu trở thành một linh mục –đương nhiên là một linh mục thánh thiện- thì em cần phải tập cho mình tính tiết chế ngay từ bây giờ, bằng không khi em đã làm linh mục rồi, thì em sẽ khó mà tiết chế mình được, vì lúc đó em có một ý tưởng rất kỳ quái là: đỗ linh mục rồi, sợ quái gì nữa. Vâng, làm linh mục rồi thì không sợ gì nữa, không sợ bị đánh rớt bài thi, không sợ người khác dọa nạt, không sợ đói, không sợ thiếu tiền tiêu.v.v...nhưng điều mà người linh mục phải sợ chính là sợ đánh mất phẩm giá linh mục nơi mình, do đó mà anh muốn nói với em rằng, tiết chế là điều làm cho người linh mục thảnh thơi hơn, quảng đại hơn trong khi thi hành bổn phận mục tử của mình.
a. Tiết chế lời nói
Sách Cách Ngôn dạy rằng:
“Kẻ ngu si không kìm được giận dữ,
Người khôn khéo biết nén nhục nuốt sầu” (Cn 12, 16).
Em biết không, anh vẫn luôn xác tín rằng, khi một thanh niên chịu chức linh mục, hoặc một linh mục chịu chức giám mục thì Chúa Thánh Thần luôn làm cho các vị đó được trở thành người khôn ngoan, ngoại trừ những vị đó cảm thấy mình không cần đến sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần nữa, sự khôn ngoan ấy được bộc lộ rõ nhất là trong lời nói của các ngài, tức là các ngài biết tiết chế lời nói, biết lúc nào nên nói và lúc nào không nên nói.
Có nhiều người mắc nạn cũng vì không tiết chế được lời nói của mình, có những người phải ôm hận vì bản thân không tiết chế được lời nói, và có những người được người khác vị nể cũng do lời nói của mình.
Làm linh mục thì càng phải tiết chế lời nói nhiều hơn, nói khi cần nói và nín thinh khi không cần thiết phải nói. Anh đã thấy một vài linh mục trẻ nói cho sướng miệng, nói cách giận dữ mà không tiết chế lời nói của mình, kết quả là họ đã xúc phạm đến nhân phẩm của người khác và hạ uy tín của mình trước người khác.
Tiết chế lời nói khi tranh luận,
Tiết chế lời nói khi hội họp,
Tiết chế lời nói khi muốn phê bình người khác,
Tiết chế lời nói khi phát biểu...
Càng nói nhiều thì càng bày ra những khuyết điểm, càng nói nhiều thì càng trở thành người có tâm hồn trống rỗng, và có khi trở thành mục đích gièm pha của giáo dân hoặc cho những người có thành kiến không tốt với các linh mục.
Em muốn làm linh mục, thì ngay từ bây giờ phải tập cách tiết chế lời nói, mà cách tập hay nhất là cầu nguyện trước khi nói. Bởi vì như em biết đó, có những lần em “chát” và tâm sự với anh rằng, cha này khi giảng dạy không có ơn Chúa Thánh Thần vì ngài nói theo thói quen và chê bai phê bình giáo dân, cha nọ khi nói chuyện thì không chú ý đến lời nói vì ngài nói mà không biết người đối diện muốn nghe hay không? Anh cám ơn Chúa vì em đã biết nhận ra đâu là lời giảng dạy của Chúa Thánh Thần nơi người linh mục, đó là lời giảng có tiết chế và chứa đựng giáo huấn yêu thương của Phúc Âm, và khi đã nhận ra được thế nào là tiết chế lời nói thì anh tin chắc rằng, em sẽ tập được cách tiết chế lời nói của mình cho thiên chức linh mục sau này của em.
b. Tiết chế nóng giận
Em biết không,
Không phải ai cũng có thể tiết chế sự giận dữ tính nóng của mình, chính anh đây cũng có lúc la toáng lên khi giáo dân làm trái ý mình, nhất là trong những thánh lễ trọng có nhiều nghi thức, nhưng sau đó thấy mình nóng nảy cách vô lý nên anh hứa sẽ tiết chế sự nóng nảy vô lý của mình. Bởi vì giận dữ và nóng nảy thì không giải quyết được gì cả, đó là điều mà tất cả mọi người đều biết, nhưng vì tính tình nó dính liền với cái tôi, nên dù biết mà cũng rất khó mà không chế được, do đó mà các nhà tu đức khuyên bảo chúng ta phải cầu nguyện và học hỏi gương của Chúa Giê-su và Mẹ Maria cũng như của các thánh nam nữ.
Nóng tính giận dữ là bởi coi mình quá cao trọng hơn người khác, thường có ý tưởng mình giỏi hơn người khác và muốn mọi ý kiến, mọi lời nói của mình cần được người khác nghe và thi hành, cho nên những linh mục có tính giận dữ thì giáo dân chỉ đứng xa xa mà nhìn, và không muốn cộng tác với ngài trong mọi việc ở nhà xứ.
Làm linh mục là để bày tỏ sự hiền lành và khiêm tốn của Chúa Giê-su giữa mọi người, chứ không phải bày tỏ một quyền uy của một chủ nhân ông giữa một cộng đoàn dân Thiên Chúa ngay trong giáo xứ của mình, do đó, nếu em muốn trở thành một linh mục của Chúa Giê-su với tất cả lòng yêu mến Ngài và Hội Thánh của Ngài, thì em cần tiết chế tính nóng giận của mình ngay trong cuộc sống ngay từ bây giờ, bởi vì chính mắt anh đã thấy sự giận dữ nóng nảy của một vài linh mục khi không bằng lòng một điều gì đó, các vị ấy cũng trợn mắt xỉa xói và nói những lời cộc cằn như những thanh niên ngoài đời khác, họ quên mất mình là một linh mục của Chúa Giê-su, họ to tiếng dùng những lời lẽ sâu hiểm để chơi nhau, chính những lúc này anh nghiệm ra được rằng nếu không có cầu nguyện và thực tập nhân đức, thì dù là linh mục họ vẫn như những người khác mà thôi.
Em thử nghiệm lại cuộc sống của em xem sao, có những lúc em kiềm chế được tính nóng nảy thì em thấy đời sao mà đẹp và vui vẻ thế, và những lúc em không kiềm chế được tính nóng mà nói to tiếng nặng lời với người khác, thì dù em có nhận lỗi hoặc em có chủ động bắt tay làm hòa chăng nữa, thì tự sâu thẳm của lương tâm em vẫn còn một chút gì đó rất áy náy ân hận. Đó là kinh nghiệm của anh, và anh muốn nói với em là phải tập tiết chế tính khí nóng giận của mình, nếu em muốn mình trở thành một linh mục tương lai của Chúa Giê-su và của Giáo Hội.
Con người thời nay rất nhạy bén với hành vi ngôn ngữ của các linh mục, họ nhạy bén là vì càng ngày họ càng hiểu rõ giáo lý của Giáo Hội hơn, họ nhạy bén là vì họ không còn giữ đạo theo kiểu pháo đài nữa, nhưng là họ sống đạo giữa đời theo kiểu men trong bột, và họ chỉ mong muốn các linh mục của Giáo Hội sống thật hiền lành và khiêm tốn như Chúa Giê-su, thế là họ an tâm phó thác linh hồn cho các vị mục tử ấy.
c. Tiết chế ăn uống
Em có biết không,
Các nhà tu đức học đều rất chú trọng đến việc tiết chế ăn uống, nghĩa là họ đã nghiên cứu sâu xa về việc ăn uống thoải mái và có nhiều chất dinh dưỡng rất có hại đến đời sống tu đức của các linh mục tu sĩ, bởi vì khi ăn uống no say thì có một trạng thái phát sinh theo là cảm thấy mệt và làm biếng, sau đó thì muốn nghỉ ngơi, em thử nghĩ xem, nếu một ngày chúng ta ăn ba bữa sáng trưa chiều tối với đầy đủ các thứ dinh dưỡng như bia rượu, thì thân xác của chúng ta ngày càng béo phì ra và trở nên mệt nhọc nặng nề không ưa thích hoạt động gì cả…
Tiết chế ăn uống chính là điều chỉnh lại bộ máy sinh học của chính mình, nhất là các linh mục đang làm việc mục vụ ở giáo xứ, các ngài được tự do ăn uống mà không một ai cấm cản hoặc gò bó, cho nên không lạ gì có nhiều linh mục xem ra đẹp mã tốt tướng nhưng thân mang đầy bệnh hoạn.
Tiết chế ăn uống giúp cho chúng ta được rất nhiều việc, mà ý nghĩa lớn lao nhất trong việc tiết chế ăn uống chính là biết cảm nghiệm sự thiếu thốn với những người nghèo khó.
Việc ăn uống cũng nói lên tính cách của người linh mục, có linh mục thích ăn ngon mặc đẹp, có linh mục thích ăn những thức ăn do tự tay mình nấu để hợp với khẩu vị mà mình ưa thích, lại có những linh mục thì rất chú trọng đến việc ăn uống và coi việc ăn uống đầy đủ như là một công việc chính trong ngày của mình. Anh thấy có nhiều linh mục trẻ, có lẽ sống trong môi trường -trước khi đi tu- thiếu thốn và ăn uống bị hạn chế, nên khi làm linh mục thì tha hồ ăn uống mà không tiết chế, lại còn chê bai này nọ khi thức ăn không ngon và ăn uống rất lãng phí.
Tiết chế không có nghĩa là không ăn uống gì cả, hoặc mỗi ngày chỉ ăn cháo mà sống, nhưng tiết chế chính là tự mình kiềm chế những sở thích ăn cho thật ngon mặc cho thật đẹp không phù hợp với nhân cách của một linh mục.
Tiết chế ăn uống không những làm cho thân xác được khỏe mạnh, mà còn làm cho tâm hồn được nhẹ nhàng vì không phải chú trọng quá đến việc ăn ngon mặc đẹp. Em phải nhận ra được điều này trước khi chuẩn bị tập làm linh mục, bởi vì làm một linh mục truyền giáo thì không làm việc theo giờ hành chánh nhưng làm việc theo nhu cầu của giáo dân, có nghĩa là giáo dân cần xức dầu bệnh nhân hoặc muốn xưng tội lúc nào thì đi lúc ấy, nếu em hưởng thụ ăn uống no say thì khó mà nhanh nhẹn vui vẻ khi giáo dân đến gặp cha sở buổi trưa hoặc những giờ khác, em hãy cố gắng tập tự mình tiết chế trong cách ăn uống nếu em muốn trở thành một linh mục truyền giáo vui vẻ, khỏe mạnh và không vướng bận bởi việc ăn ngon mặc đẹp trong cuộc sống, đó là kinh nghiệm của anh.
c. Tiết chế sự vui vẻ
Vui vẻ là điều ai cũng muốn, nhất là sự vui vẻ nơi các linh mục của Chúa Giê-su, vui vẻ thì luôn đem lại bầu khi vui tươi cho những người chung quanh, nó là cây cầu nối kết giữa những người chưa quen biết với nhau, như những đóa hoa đem tặng cho nhau giữa ngày đại hội.
Em có biết không,
Anh đã nhìn thấy nhiều linh mục rất vui vẻ, lời nói rất thân tình dí dỏm, các ngài đi đến đâu thì nơi đó có nụ cười vui, chính các ngài đã nói cho anh biết bí quyết ấy đó là sự luyện tập, các ngài tập vui vẻ khi có điều buồn bực, các ngài tập vui vẻ khi bị người khác công kích hoặc hiểu lầm, sự vui vẻ ấy chính là một công cụ truyền giáo đó em ạ.
Vậy thì có cần phải tiết chế vui vẻ không? Anh trả lời với em ngay là có, vì vui vẻ quá sẽ rất dễ dàng sinh ra sự bừa bãi tùy tiện, một thanh niên trong lúc cao hứng thì dễ dàng nói hoặc làm những điều quá đà cho phép, và như thế sẽ trở thành gương xấu và khó coi hoặc khó nghe cho người khác. Cũng vậy, em thử tưởng tượng một linh mục khi sự vui vẻ phấn chấn lên quá độ rồi ăn nói bừa bãi tùy tiện giữa đám đông thì sao, chắc chắn là ngài sẽ bị những lời phê bình nho nhỏ là mất tư cách linh mục, hoặc người khác sẽ nhìn ngài với ánh mắt coi thường.
Ma quỷ thường lợi dụng sự vui vẻ quá độ để lôi kéo người ta phạm tội, linh mục cũng không ngoài “tầm ngắm”, bởi vì ma quỷ rất hiểu tâm lý và nhu cầu của con người, vì khi người ta buồn bực thì ít phạm tội hơn khi người ta vui vẻ, cho nên biết tiết chế vui vẻ chính là một việc làm có tính cách hỗ trợ cho tinh thần tu đức mà có lẽ ít người biết, hoặc biết mà không để ý cho mấy...
Nếu em là một thanh niên có tính tình vui vẻ, thì đó là một hồng ân mà Thiên Chúa ban cho em, và nếu em tin rằng đó là một khí cụ mà Thiên Chúa ban cho em để chuẩn bị cho em làm linh mục sau này, thì em phải biết phát huy sự vui vẻ ấy bằng sự trong sáng và tế nhị, và tự chế khi nó trở nên quá phấn chấn, để khi bước vào đời linh mục thì em sẽ trở nên một linh mục của mọi người thật đúng với ý nghĩa của nó.
3. Biết nói cám ơn và xin lỗi
Có một vài giáo dân thường nói “móc họng” rằng: ông cha đó làm “cha người ta” rồi nên không cần nói tiếng cám ơn hay xin lỗi gì cả khi vô cớ trách mắng ông X...
Em có biết không, lời phê bình ấy cũng rất có căn cứ vì anh cũng đã từng thấy cha sở nọ vì tính nóng nảy mà bạt tai chú giúp lễ, vì em ấy nhỏ con bê giá sách đụng vào bàn thờ, nhưng sau đó thì ngài vẫn tỉnh bơ như không có gì cả, còn em bé thì cái má bị đánh đỏ rần và khóc thút thít; anh cũng thấy linh mục nọ nói như tát nước vào mặt ông trùm họ vì một chuyện vô lý cỏn con mà không một lời xin lỗi: ông xin cha giảng vài lời sau khi đọc Phúc Âm, vì thánh lễ ngày thường ngài không giảng.
Những đức tính nhân bản nơi người linh mục phải trổi vượt trên những người khác, dù là nói lời xin lỗi hoặc lời cám ơn, bởi vì trong cuộc sống tâm linh, linh mục là người ban ơn cho người khác nhiều nhất, vì linh mục được chọn để làm việc đó, và cũng trong cuộc sống đời thường, người chịu ơn nhiều nhất có lẽ là linh mục, và người làm tổn thương giáo dân nhiều nhất cũng có lẽ là linh mục. Có lẽ chúng ta dễ dàng nói cám ơn hơn là nói xin lỗi, vì nói cám ơn là lòng dạ sung sướng khi được người khác tặng quà hoặc giúp đỡ mình, còn nói xin lỗi thì chúng ta cứ cảm thấy rằng nó nhục sao ấy, vì chẳng khác chi nói mình có lỗi, nhưng thực ra lời nói cám ơn hay nói xin lỗi đều đề cao phẩm giá của mình trước mọi người, và làm cho người khác cảm phục vì sự khiêm tốn của mình khi cám ơn hoặc xin lổi người khác.
Phải biết nói cám ơn khi người khác làm ơn cho mình, và phải biết nói xin lỗi khi mình làm thương tổn hoặc làm hại người khác.
Cám ơn và xin lỗi thì không miễn trừ một ai, dù là giáo hoàng hay tổng thống, dù là giám mục hay giáo dân cũng đều phải dùng đến nó, vì nó thể hiện lên một phong cách rất nhân bản của con người thì huống gì là linh mục, linh mục thì càng phải biết nói cám ơn và xin lỗi nhiều hơn nữa, vì chính các linh mục là những người trực tiếp làm việc với giáo dân, nên rất dễ dàng va chạm với người này người nọ, cho nên hai chữ cám ơn và xin lỗi là những viên thuốc xoa dịu những căng thẳng giữa cha sở và giáo dân, hoặc giữa nhóm này nhóm nọ trong giáo xứ.
Anh đã từng tham gia nhiều hội đoàn, đã tiếp xúc nhiều người và anh thấy đâu đâu người ta cũng đặt hai chữ cám ơn và xin lỗi trên môi miệng họ, họ xích lại gần nhau hơn bởi hai chữ cám ơn và xin lỗi ấy, đó là một biểu hiện của văn minh và có giáo dục. Và anh cũng thấy có rất nhiều linh mục cũng như thế, các ngài cũng vẫn nói cám ơn khi cô phục vụ trong tiệc chiêu đãi rót cho mình một ly nước lã, các ngài cũng nói lời xin lỗi khi thấy lời nói của mình làm giáo dân khó chịu...
Em biết không, bây giờ người ta cũng cài hệ thống ngôn ngữ vào trong người máy (robot) rồi đó, mà hai chữ cám ơn và xin lỗi được nhiều người thích thú nhất, vì nó thể hiện tính người nơi người máy, người ta cố gắng hiện đại hóa cuộc sống, hiện đại hóa công nghệ, và ngoài những lập trình vĩ đại dành cho người máy, thì người ta cũng không quên cài vào hai chữ cám ơn và xin lỗi nơi người máy, và khi nó biết nói cám ơn và xin lỗi, thì mọi người cười ồ vui vẻ nói: nó giống con người.
Người máy biết nói cám ơn và xin lỗi đã được gọi là giống như con người thật, và ngược lại, nếu con người ta không biết nói cám ơn và xin lỗi thì sẽ giống như người máy nặng nề không cài hệ thống ngôn ngữ cám ơn và xin lỗi.
Em thân mến, nếu sau này em chọn con đường làm linh mục, thì em đừng quên hai chữ cám ơn và xin lỗi trên môi miệng em, dù hai chữ đó em dùng để xin lỗi một thiếu nhi trong giáo xứ, thì em sẽ trở thành một linh mục dễ mến nhất của mọi người.
4. Biết lắng nghe
Em có biết không, lắng nghe ý kiến của người khác là việc làm quan trọng của một linh mục, nhất là các linh mục coi sóc xứ đạo, lắng nghe
chứ anh không nói là làm theo ý của giáo dân, nhưng lắng nghe ý kiến của giáo dân rồi phân tích với tất cả khôn ngoan và kinh nghiệm, bởi vì cộng đoàn giáo xứ là của họ, là nơi họ sinh ra và lớn lên, còn linh mục là người được phái đến để coi sóc họ về phần linh hồn, để họ sống như ý của Thiên Chúa muốn.
Lắng nghe cũng là thái độ khiêm tốn của người mục tử, bởi vì có những linh mục không hề biết lắng nghe lời góp ý của giáo dân, các ngài chỉ muốn giáo dân thụ động nghe lời của mình mà thôi, nên giáo xứ của các ngài vắng đi nụ cười thân ái giữa cha và con, vắng đi lời giảng hùng hồn truyền cảm của cha sở, vì lòng ngài không vui khi có giáo dân góp ý cho mình trong việc xây dựng giáo xứ. Anh đã nghe nhiều giáo dân than phiền cha này cha nọ chỉ biết làm theo ý riêng của ngài mà thôi, bởi vì ngài muốn chứng tỏ cho giáo dân biết mình là người toàn năng, giỏi toàn diện trên mọi công việc. Có những việc cha sở phải “độc quyền” như lễ nghi và giáo lý, có những việc cha sở phải bàn hỏi với giáo dân và có quyết định sau cùng, có những việc cha sở giao cho giáo dân chủ động quyết định.v.v…thì giáo xứ chắc chắn sẽ phát triển về mọi mặt, mà phát triễn đẹp nhất chính là cha con trong giáo xứ biết yêu mến và thông cảm nhau.
Em biết không, đôi lúc anh tự nghĩ rằng có lẽ thiên chức linh mục cao quý quá, cao trọng quá, nên tự nhiên có những linh mục sau khi mới chịu chức thì thay đổi cả tính tình vốn hiền hòa khiêm tốn của mình, thay đổi luôn cả tư cách vốn rất bình dân thân thiện của mình để trở thành một con người tuy gần mà xa với giáo dân, đương nhiên anh không nói rằng tất cả các linh mục đều như thế, nhưng thực tế vẫn còn có nhiều linh mục vẫn không thay đổi gì sau khi làm linh mục, vì làm linh mục đối với các ngài là để phục vụ dân Thiên Chúa mà thôi.
Anh còn nhớ rất rõ hồi anh còn làm thầy giúp xứ, cha sở (và cũng là nghĩa phụ) của anh đã dạy anh rằng: “Lắng nghe giáo dân là một nhân đức, thầy cần phải tập ngay bây giờ và sau này làm linh mục”, cho nên anh không lạ gì ngài đến giáo xứ nào thì giáo xứ ở đó phát triển, và giáo dân rất đoàn kết cộng tác với ngài trong việc mở mang giáo xứ.
Đã nhiều lần trong công tác mục vụ anh đã lắng nghe ý kiến của giáo dân về một số vấn đề, và anh thấy những ý kiến ấy làm cho công việc truyền giáo của mình càng tốt đẹp hơn, giáo dân thấy cha sở biết lắng nghe ý kiến của mình họ cũng rất vui vẻ phấn khởi, và khi họ biết cha sở không có độc quyền độc đoán thì họ sẵn sàng làm tất cả những gì mà giáo xứ cần đến. Vậy thì lắng nghe trong những dịp nào, trong những dịp sau đây:
- Những lần hội họp ban hành giáo.
Những lúc họp như thế này thì thường thảo luận những việc sắp làm và kiểm thảo những việc đã làm, có một kinh nghiệm nho nhỏ của anh là khi ban hành giáo thảo luận vấn đề thì cha sở nên lắng nghe, không góp ý giữa chừng, tuyệt đối lắng nghe, chỉ nói khi họ hỏi ý kiến, tại sao vậy? Bởi vì cha sở là người quyết định cuối cùng, nên phải lắng nghe để quyết định của mình được cả hai phía thuận, nghịch đồng ý, hơn nữa khi lắng nghe những lời bàn cải của họ, mình có thể hiểu thêm được nhân cách trí tuệ và khả năng từng cá nhân, để mời họ cộng tác vào những ban bệ trong giáo xứ của mình.
- Lắng nghe khi tiếp xúc trò chuyện với giáo dân.
Giáo dân chỉ thổ lộ tâm tình hoặc góp ý cho cha sở khi ngài vui vẻ mà thôi, nhưng cũng có những trường hợp vì quá bức xúc nên giáo dân góp ý với cha sở mà không đợi khi ngài vui vẻ, trong những trường hợp như vậy thì linh mục cần phải lắng nghe hơn nữa, bởi vì khi những bức xúc được nói ra và được người lắng nghe thì giáo dân có cảm tưởng dễ chịu hơn và vui vẻ góp ý hơn.
Thường thì lời góp ý của giáo dân không có gì là to lớn lắm đâu, cũng chung quanh mấy vấn đề như: xin cha giảng ngắn lại chút xíu, xin cha đọc lớn tiếng trong thánh lễ để chúng con nghe được, hoặc xin cha cố gắng tiếp xúc hòa đồng với tụi thanh niên.v.v… tất cả những lời đề nghị như thế có lúc đụng chạm đến cha sở đấy, nhưng nếu sau này em làm cha sở thì nên biết bình tĩnh lắng nghe và nở nụ cười, rồi em sẽ thấy lời góp ý ấy quả không sai và dể dàng chấp nhận…
Anh cũng đã từng chia sẻ với các anh em linh mục rằng: lắng nghe giáo dân không phải là một việc làm nhục nhã của cha sở, cũng không phải là cha sở hạ thấp mình xuống, nhưng trái lại, khi biết lắng nghe giáo dân thì mình biết được cách quản trị giáo xứ của mình chỗ nào chưa được và chỗ nào đã ổn định cần phát triển tiếp tục (1), bởi vì lời và thánh ý của Thiên Chúa không đóng khung trong nhà thờ, không đóng khung nơi các mục tử của Giáo Hội, mà còn là nơi những người giáo dân của chúng ta, bởi vì khi cần thiết thì Thiên Chúa cũng có thể mở miệng con lừa để cho người ta biết thánh ý của Ngài (Ds 22, 28-30), thì huống gì là giáo dân, những con người được Thiên Chúa giao phó cho các linh mục của Chúa Giê-su và của Giáo Hội chăm sóc.
Em thử tập lắng nghe tiếng của Thiên Chúa trước qua đức tin của em, rồi sau đó em tập lắng nghe tiếng của bạn bè khi họ góp ý cho em điều này điều nọ, tập lắng nghe cho biết ý của Thiên Chúa, để sau này khi vào học trong chủng viện hay một hội dòng nào đó, thì em biết lắng nghe các vị bề trên và các cha giáo của em, và khi trở thành linh mục thì em sẽ là một linh mục biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của giáo dân mà em có bổn phận coi sóc.
5. Biết thinh lặng
Người linh mục khôn ngoan là người biết thinh lặng đúng lúc, dù đang tranh cãi gay cấn, dù đang bực tức, dù sự ấm ức lâu ngày dồn nén trong lòng, thì cũng phải biết thinh lặng đúng chỗ, đó chính là một ơn lành mà Thiên Chúa ban cho các linh mục của Ngài. Trong cuộc sống đời thường, sự thinh lặng đúng lúc luôn là liều thuốc giải độc cho các trường hợp, bởi vì sự thinh lặng này không phải là đồng lõa nhưng là sự nghỉ ngơi của khôn ngoan.
Em có biết không, anh đã từng thấy những vị linh mục thinh lặng trước những hỉ nộ sân si của các anh em linh mục của mình; anh cũng thấy (ít nữa là một lần) có một cha sở thinh lặng trước công kích của một vài giáo dân vì cha sở không làm theo ý họ, kết quả của sự thinh lặng ấy là gì, là chính những giáo dân ấy đến xin lỗi cha sở vì tính quá nóng nảy mà mình đã vượt qua quyền hạn của cha sở mình.
Linh mục, có thể nói là người của thinh lặng, vì Thiên Chúa thích hiện diện trong thinh lặng, và chỉ trong thinh lặng mà thôi thì linh mục mới thấy rõ ơn của Thiên Chúa ban xuống trên mình và trên giáo xứ của mình.
- Khi giáo dân tranh cãi thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
- Khi giáo dân trách móc linh mục thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
- Khi giáo dân góp ý thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
- Khi các anh em linh mục hỉ nộ sân si chỉ trích thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
Thinh lặng lắng nghe khi người khác công kích mình thì khó lắm, nhưng Chúa Giê-su đã làm được và có rất nhiều vị linh mục đã làm như thế và đã thành công. Em thử hình dung ra một linh mục mà đối chất tay đôi với một giáo dân thì như thế nào, nói về hành vi và hình dung thì cả hai người mặt mày đều đỏ kè, nhăn nhó xấu xí khó coi; nói về ngôn ngữ thì lại càng khó nghe vì dùng những chữ dao to búa lớn để choảng nhau. Cho nên nếu không giữ được thinh lặng thì không những linh mục sẽ trở nên gương xấu cho người khác, và nhất định là giáo dân sẽ hoảng sợ ngài khi muốn góp ý xây dựng với ngài trong công việc của giáo xứ.
Thinh lặng cũng bày tỏ công phu tu dưỡng nhân đức của linh mục, một linh mục biết giữ được trạng thái thinh lặng thì khuôn mặt luôn bày tỏ nét vui tươi và hoạt bát, bởi vì tâm hồn của các ngày đã tĩnh trong một thế giới động là những việc phải lo toan của giáo xứ, cũng như những lời công kích của người khác.
Anh nghĩ rằng trong đời em cũng đã nhiều lần chứng kiến hai người chửi nhau, công kích nhau, thậm chí còn thượng cẳng tay hạ cẳng chân nữa là khác, những lúc em thấy như thế thì nên rút ra cho mình một bài học, để sau này khi đối diện với công việc của một linh mục, thì em có một cách suy tư hơn về việc thinh lặng trong đời sống tu trì, chính Chúa Giê-su cũng đã thinh lặng trước quan tổng trấn Phi-la-tô. Em đọc lại đoạn Tin Mừng của thánh Mac-cô nơi đoạn Chúa Giê-su đứng trước ông quan Phi-la-tô xem sao:
“Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Phi-la-tô hỏi Người:
- Ông không trả lời gì sao ? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!”
Nhưng Chúa Giê-su không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên” (Mc 15, 3-5).
Đúng là Chúa Giê-su không trả lời, Ngài đang thinh lặng, cái thinh lặng của người hiểu biết trước cái không hiểu biết của kẻ khác, cái thinh lặng của người chiến thắng trước một kẻ kiêu ngạo hiếu chiến của người đối thoại, cái thinh lặng của người khôn ngoan và thông minh trước mặt người chỉ ỷ vào quyền chức nhưng nhu nhược của mình.
Trong đêm vắng giữ được thinh lặng thì rất dễ, nhưng thinh lặng giữa cuộc sống xô bồ mới khó và có giá trị; thinh lặng giữa cảnh thuận hòa của anh em thì rất dễ, nhưng thinh lặng khi anh em chia bè lập cánh để đấu đá nhau thì rất khó, bởi vì không ai muốn mình bị “lãng quên” trên “cuộc chiến” đấu bằng nước miếng này...
Em thân mến,
Cũng có những lúc em thinh lặng thì người ta sẽ nghĩ rằng em sợ hoặc thua cuộc, nhưng em đừng sợ, bởi vì những người có tính hiếu thắng mới nghĩ như thế mà thôi, cho nên bây giờ dù em chưa phải là linh mục, chưa phải là tu sĩ, nhưng anh nghĩ rằng em cũng cần phải biết thinh lặng đúng nơi đúng chỗ giữa những bạn bè của em, giữa những người mà em tiếp xúc hoặc khi họ hiếu thắng muốn em về phe họ để lớn tiếng chửi rủa nhục mạ người khác.
Một linh mục không biết thinh lặng đúng nơi đúng chỗ, thì chẳng khác gì đem hạt lúa giống gieo vào trong vườn hoa sặc sỡ, lúa giống sẽ biến thành cỏ và nhọc công cho người làm vườn phải nhổ bỏ mà thôi...
6. Biết tế nhị
Em có biết không, người khôn ngoan họ rất tế nhị trong cách cư xử hằng ngày với người khác, có những việc mà đôi lúc người thông minh không giải quyết được, nhưng người biết tế nhị thì giải quyết được ngay mà làm vừa lòng mọi người...
Vậy tế nhị là gì ? Tế nhị có nghĩa là khéo léo, tinh tế nhã nhặn trong đối xử hoặc có những tình tiết rất nhỏ, sâu kín, khó nói hoặc không thể nói ra được (1).
Linh mục là người thường tiếp xúc với giáo dân, mà giáo dân thì có đủ nhiều thành phần học thức và không học thức, nghề nghiệp khác nhau và sự giáo dục cũng khác nhau, cho nên việc tế nhị đối với các linh mục rất là cần thiết, mà nơi cần phải tế nhị nhất là tòa giảng và khi giao tiếp với giáo dân.
Giảng dạy là một công việc quan trọng của linh mục, là quyền ưu tiên của linh mục, quyền này gắn liền với chức linh mục, cho nên khi làm linh mục thì cũng đồng thời có bổn phận giảng dạy Lời Chúa cho mọi người, quyền này chỉ mất đi khi với lý do chính đáng và chỉ có đức giám mục địa phận mới có quyền mà thôi. Vì quyền giảng dạy là độc quyền của linh mục, cho nên có một vài linh mục khi giảng dạy thì có những lời lẽ không tế nhị với giáo dân, các ngài dùng những lời nói rất thật, thật quá đến nổi giáo dân phải đỏ mặt tía tai, đôi lúc các ngài trình bày một vấn đề mà không tìm hiểu coi có đụng chạm đến giáo dân nào không? Tế nhị là trình bày Lời Chúa và chỉ trong phạm vi Lời Chúa mà thôi, khi muốn dùng hình ảnh của câu chuyện để làm bối cảnh.
|