Gabrien sinh trưởng trong một gia đình giầu có, đạo đức nên ngài được thừa hưởng nền giáo dục tôn giáo vững chắc. Vào năm 18 tuổi, ngài gia nhập dòng Phanxicô và được thụ phong linh mục năm 25 tuổi. Sau đó không lâu, ngài đi giảng phòng trong các giáo xứ trên toàn nước Ý, và đó là một công việc ngài đã thi hành trong 25 năm một cách thành công.
Ngài có nhiều nhân đức cũng như nhiều chức vụ mà ngài được giao phó. Ngài không bao giờ né tránh việc lao động, hoặc ngần ngại đương đầu với những vấn đề giao tế cá nhân. Là một người đạo đức và khiêm tốn, có lần trên đường đến Assissi, khi dừng chân cầu nguyện tại nhà thờ ở Foligno, ngài bị tưởng lầm là một thầy dòng Phanxicô nên bị thầy dọn lễ gọi lên giúp lễ cho một linh mục. Cha Gabrien khiêm tốn vâng lời. Thánh Lễ cử hành một cách tốt đẹp, cho đến khi có một linh mục nhận ra ngài là vị bề trên tỉnh dòng thì đã quá trễ, và thầy phụ trách việc dọn lễ bị khiển trách. Cha Gabrien đã bênh vực thầy, và nói, "Ðược giúp lễ là một đặc ân cao trọng. Các thiên thần cũng muốn được như thế. Do đó đừng khiển trách thầy ấy vì đã cho tôi vinh dự này!"
Tình yêu Thiên Chúa và Ðức Trinh Nữ Maria của Cha Gabrien được biểu lộ trong các bài giảng. Tình yêu ấy đã được đáp trả bằng cách Thiên Chúa cho ngài được thị kiến Ðức Kitô cũng như Mẹ Maria.
Ngài từ trần năm 1456 giữa sự luyến tiếc của các anh em tu sĩ dòng.
9 Tháng Mười Hai
Chân Phước Juan Diego
(1474-1548)
Lúc đầu người ta gọi ngài là Cuauhtlatohuac ("Con đại bàng cất tiếng"), tên Juan Diego thì mãi mãi đi liền với Ðức Mẹ Guadalupe vì chính ngài là người được Ðức Mẹ hiện ra ở đồi Tepeyac lần đầu tiên vào ngày 9-12-1531.
Ông là một thổ dân nghèo hèn, 57 tuổi, goá vợ, tên thật là Cuatitlatoatzin và sau khi rửa tội có tên là Juan Diego. Vào buổi sáng thứ Bảy, 9 tháng Mười Hai 1531, ông đến nhà nguyện gần đó để tham dự lễ kính Ðức Mẹ. Khi đang đi trên ngọn đồi gọi là Tepeyac thì ông nghe có tiếng nhạc du dương như tiếng chim hót. Sau đó một đám mây sáng chói xuất hiện, đứng trên đám mây là một trinh nữ người thổ dân mặc y phục như công chúa của bộ lạc Aztec. Trinh nữ nói chuyện với ông bằng tiếng bản xứ và sai ông đến với Ðức Giám Mục của Mexico, là một tu sĩ dòng Phanxicô tên Juan de Zumarraga, và yêu cầu đức giám mục xây cất một nguyện đường nơi Trinh Nữ hiện ra.
Dĩ nhiên vị giám mục không tin, và bảo Juan Diego xin Trinh Nữ cho một dấu chỉ. Trong thời gian này, người chú của ông bị bệnh nặng. Ðiều đó khiến ông cố tránh né không muốn gặp Trinh Nữ. Tuy nhiên, đức trinh nữ tìm ông, đảm bảo với ông là người chú sẽ khỏi bệnh, và bảo ông hái các bông hồng quanh đó để làm bằng chứng với vị giám mục. Lúc ấy là mùa đông thì không thể có bông hoa nào mọc được, nhưng lạ lùng thay, gần chỗ Trinh Nữ hiện ra lại đầy dẫy những hoa hồng tuyệt đẹp. Và ông đã dùng chiếc áo tơi của mình để bọc lấy các bông hồng đem cho vị giám mục.
Trước sự hiện diện của đức giám mục, ông Juan Diego mở áo tơi ra và bông hồng đổ xuống tràn ngập khiến vị giám mục phải quỳ gối trước dấu chỉ lạ lùng ấy. Lạ lùng hơn nữa, trên chiếc áo tơi lại có in hình Ðức Trinh Nữ như ngài đã hiện ra với ông ở đồi Tepeyac. Ðó là ngày 12 tháng Mười Hai 1531.
Sau đó, người ta không đề cập gì nhiều đến Juan Diego. Có lúc ông sống gần một ngôi đền được dựng ở Tepeyac, được mọi người kính trọng như một giáo lý viên thánh thiện, vô vị lợi và đầy lòng nhân ái qua lời nói cũng như gương mẫu.
Trong chuyến tông du năm 1990 đến Mễ Tây Cơ, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã xác nhận một nghi thức có từ lâu đời nhằm vinh danh Juan Diego qua việc phong chân phước cho ông.
Lời Bàn
Thiên Chúa mong đợi Juan Diego đóng một vai trò khiêm tốn nhưng bao la trong việc đem Tin Mừng cho người dân Mễ Tây Cơ. Cố vượt qua sự lo sợ cũng như sự hồ nghi của Ðức Giám Mục Juan de Zumarraga, chân phước Juan Diego đã cộng tác với ơn sủng của Thiên Chúa khi ông cho dân chúng thấy rằng Tin Mừng của Chúa Giêsu thì không riêng cho một ai. Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng nhân cơ hội phong chân phước này để thúc giục người Mễ Tây Cơ hãy nhận lấy trách nhiệm rao truyền cũng như làm chứng cho Tin Mừng.
Lời Trích
"Cũng như các nhân vật trong phúc âm xưa đại diện chung cho mọi dân tộc, chúng ta cũng có thể nói rằng Juan Diego đại diện cho những người thổ dân đã chấp nhận Tin Mừng của Ðức Giêsu, nhờ sự trợ giúp của Mẹ Maria, là người luôn luôn sát cánh với hành động của Con Mẹ và sự phát triển của Giáo Hội, như khi ngài hiện diện với các Tông Ðồ trong ngày Hiện Xuống" (Bài giảng lễ phong chân phước của ÐGH Gioan Phaolô II).
Thánh Anysia sống ở Thessalonica vào cuối thế kỷ thứ hai. Thessalonica là một thành phố cổ mà chính Thánh Phaolô là người đầu tiên đem tin mừng Chúa Giêsu đến đây. Anysia là một tín hữu Kitô và sau khi cha mẹ ngài từ trần, ngài đã dùng tài sản để giúp đỡ người nghèo. Vào thời ấy, có sự bách hại người Kitô Giáo ở Thessalonica. Nhà cầm quyền nhất định ngăn chặn mọi tín hữu không cho tụ tập cử hành Thánh Lễ. Một ngày kia Anysia tìm cách đến nơi tụ họp. Khi đi qua cửa thành Cassandra, ngài bị người lính canh để ý. Hắn bước ra chặn đường, hỏi ngài đi đâu. Vì sợ hãi, Anysia bước lùi lại và làm dấu trên trán. Lúc ấy, tên lính túm lấy ngài và lay mạnh. Hắn la lớn, "Mày là ai? Ði đâu vậy?" Anysia hít một hơi dài và trả lời, "Tôi là tôi tớ của Ðức Giêsu Kitô. Tôi đến nơi hội họp của Chúa." ..
Là một người kiên quyết dù có đôi lúc giao động, nhưng sau đó biết rằng không thể hòa giải với tội lỗi, ngài trở nên một giáo sĩ hăng say, bị tử đạo và được tuyên xưng là thánh -- đó là cuộc đời Thánh Tôma Becket, Tổng Giám Mục của Canterbury, bị giết ngay trong vương cung thánh đường của ngài vào ngày 29-12-1170. ..
Hêrôđê "Ðại Ðế", là vua xứ Giuđêa nhưng không được dân chúng mến chuộng vì ông làm việc cho đế quốc La Mã và ông rất dửng dưng đối với tôn giáo. Vì lý do đó ông luôn cảm thấy bất an và lo sợ bất cứ đe dọa nào đối với ngai vàng của ông. Ông là một chính trị gia giỏi và là một bạo chúa dám thi hành những việc tàn bạo. Ông giết chính vợ ông, anh của ông và hai người chồng của cô em, đó chỉ là sơ khởi...
Ðã đến lúc Con Thiên Chúa làm người vì yêu thương chúng ta. Mẹ Người là Ðức Maria và Thánh Giuse phải rời bỏ căn nhà yêu dấu ở Nagiarét để đến Bêlem. Lý do là vì hoàng đế Rôma muốn kiểm tra dân số. Vì Ðức Maria và Thánh Giuse thuộc về dòng họ vua Ðavít nên các ngài phải về Bêlem. Hoàng đế ra lệnh, nhưng lệnh ấy lại hoàn thành hoạch định của Thiên Chúa. Kinh Thánh nói rằng Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở Bêlem...
Thánh Charbel tên thật là Youssef Makhlouf, sinh ngày 8 tháng Năm 1828 ở một làng vùng cao nguyên Lebanon. Cuộc đời Youssef rất bình thường, cũng đi học, đi nhà thờ như bất cứ ai khác. Ngài yêu quý Ðức Mẹ và siêng năng cầu nguyện. Ngài có hai người chú là đan sĩ. Ngài âm thầm cầu xin Ðức Mẹ giúp ngài trở thành một đan sĩ. Khi gia đình muốn ngài kết hôn vì họ thấy có một thiếu nữ rất xinh đẹp trong làng mà họ tin sẽ là người vợ lý tưởng của ngài thì Youssef lại tin rằng đã đến lúc phải theo đuổi ơn gọi làm đan sĩ. Ngài gia nhập đan viện Ðức Mẹ ở Mayfuq khi hai mươi ba tuổi, lấy tên Charbel của vị tử đạo người Syria. Ngài khấn trọn năm 1853 khi hai mươi lăm tuổi. Charbel học làm linh mục và được thụ phong năm 1858. Ngài ở tu viện St. Maron trong mười sáu năm tiếp đó...
Thánh Gioan là một người sinh trưởng ở thôn quê nhưng biết lợi dụng thị thành cũng như Ðại Học Krakow ở Ba Lan để trau dồi thêm kiến thức. Sau khi hoàn tất việc học, ngài được thụ phong linh mục và là giáo sư thần học. Không may, vấn đề phe cánh thời ấy còn rất nặng nề nên những người ganh tị sự nổi tiếng của ngài đã lập mưu để đẩy ngài ra khỏi chức giáo sư. Ngay cả ngài không được phép lên tiếng và dẫn chứng để bào chữa. Bởi thế, vào lúc 41 tuổi, ngài bị đẩy về giáo xứ Olkusz, để học làm cha xứ...
Jacomo, hoặc James (Giacôbê), sinh trong một gia đình quyền quý thuộc dòng họ Benedetti ở thành phố Todi thuộc phía bắc nước Ý. Ông trở nên một luật sư thành công và kết hôn với một phụ nữ đạo đức, độ lượng tên là Vanna...
Cuộc đời đầy năng lực của Thánh Phêrô Canisius phải đánh đổ bất cứ ấn tượng nào cho rằng cuộc đời của các thánh thì nhàm chán. Thánh nhân đã sống 76 năm với một nhịp độ không thể nói gì khác hơn là phi thường, ngay cả trong thời đại thay đổi mau chóng của chúng ta. Là một người được Thiên Chúa ban cho nhiều tài năng, thánh nhân là gương mẫu tuyệt hảo của một người sống cho phúc âm đã phát triển tài năng vì Thiên Chúa. ..
20 Tháng Mười Hai - Thánh Elizabeth ở Áo & Thánh Ðaminh ở Silos
Là con gái của Hoàng Ðế Maximilian II nước Ðức, Elizabeth kết hôn với Vua Charles IX của Pháp khi mới 15 tuổi. Bốn năm sau ngài đã thành góa phụ, trở về Vienna, nhất định không tái hôn...
19 Tháng Mười Hai - Tôi Tớ Thiên Chúa Berthold ở Ratisbon
Sinh ở Ðức vào khoảng năm 1220, ngay từ khi còn trẻ, Berthold người xứ Ratisbon đã gia nhập dòng Phanxicô khi mới được thành lập. Ngài đạo đức, chịu khó sống kham khổ, và được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg. Nhận thấy Berthold có khoa ăn nói nên cha David đã khuyến khích và giúp vị linh mục trẻ tuổi này trau dồi thêm khả năng đó...
Mỗi người chúng ta đều có một bà mẹ trần thế. Mẹ là người sinh ra ta, cho ta bú mớm vỗ về, an ủi ta. Mẹ là người dậy ta tiếng nói đầu đời. Mẹ đưa ta tới trường ,mở rộng chân trời cho ta tiến bước. Mẹ dậy ta biết vượt thắng gian nan, đẩy lui thử thách, biết quí trọng thời gian. Mẹ làm gương cho ta về lòng bao dung, chia sẻ, nhân ái. Mẹ dậy ta phải sống công bằng bác ái. Mẹ giúp ta ham sống và tìm ra ý nghĩa cuộc đời. Mẹ là niềm an ủi, là hạnh phúc và là sức mạnh để ta lướt thắng gian nguy .Vâng, Chúa đã trao cho mỗi người một bà Mẹ đáng yêu, đáng quí trọng, Chúa lại ban tặng cho nhân loại một bà Mẹ vượt trổi trên mọi bà Mẹ thế trần. Mẹ có tên tuyệt vời không tên nào dưới thế có thể diễn tả hết như Mẹ đã được gọi : MARIA ...
Việc thiếu những dữ kiện "xác thực" của lịch sử không ảnh hưởng đến sự nổi tiếng của các thánh, như trường hợp của Thánh Nicholas cho thấy. Cả hai giáo hội Ðông Phương và Tây Phương đều vinh danh ngài, có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường được các nghệ sĩ Kitô Giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicholas là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư -- Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á...
Sinh ở Cappadocia (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ), Thánh Sabas là một trong những thượng phụ đáng kính của các đan sĩ Palestine và được coi là một trong các vị sáng lập lối sống ẩn tu của Ðông Phương...
Đức Kitô hỏi, "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt. 16:26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón...
Thánh Mary Joseph sinh ở làng ven biển Albissola, nước Ý, trong một gia đình Công Giáo đông con. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã có ý định đi tu, nhưng dù lòng khao khát ấy mãnh liệt đến đâu đi nữa, ngài đã bị từ chối chỉ vì quá nghèo, không có của hồi môn. Ðôi vợ chồng đạo đức nhưng hiếm muộn mà ngài giúp việc trong bảy năm, lẽ ra đã có thể giúp ngài thể hiện giấc mơ ấy, nhưng họ không muốn làm như vậy chỉ vì quá yêu quý thánh nữ và họ muốn nhận ngài làm con nuôi...